🍸 Phương Thức Trần Thuật

Phương thức này được Vinay và Darbelnet mô tả là phổ biến nhất giữa các ngôn ngữ có cùng hệ phả và văn hóa. • Ví dụ: - She is deaf to all his advice.-> Cô ta lờ đi tất cả những lời khuyên của anh ấy. 4. TRANSPOSITION TECHNIQUE (PHƯƠNG PHÁP DỊCH CHUYỂN ĐỔI TỪ LOẠI) Soạn bài Câu trần thuật giúp em nắm vững kiến thức về câu trần thuật và trả lời các câu hỏi bài tập trang 45 SGK Ngữ Văn lớp 8 tập 2. Tâm Phương. Hướng dẫn soạn bài Câu trần thuật chi tiết được biên soạn giúp em trả lời các câu hỏi bài tập trang 45 SGK Ngữ Trần thuật (tiếng Anh : narration) là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định. Vai trò của trần thuật rất lớn. Căn cứ vào ngôn ngữ của nhân vật trong truyện, có thể chia thành ba phương thức trần thuật trong nghệ thuật viết truyện: Phương thức thứ nhất: Nhân vật truyện là đối tượng thuật, kể nên thuộc ngôi thứ ba. Phương thức thứ hai: Nhân vật tự kể chuyện mình nên thuộc ngôi thứ nhất. Phương thức thứ ba: Câu trần thuật dạng khẳng định (Positive): Câu trần thuật trong tiếng anh dạng khẳng định là câu mang ý nghĩa khẳng định về sự vật, sự việc, hiện tượng…đang được kể đến. Cấu trúc: Subject (chủ ngữ) + Verb (động từ) + Object (tân ngữ) Ví dụ: The sun rises in the East Đồng thời, phải vạch trần sai lầm trong quan điểm đối phương, nhằm đi đến một nhận thức chung.Tranh luận là tinh hoa nghệ thuật của năng lực hành động ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hòn đá mài sắc tư duy, là vũ khí đánh đổ mọi sai lầm. HQC QUÓc GIA TP.HCM Truðng ÐH Khoa hqc Tv nhiên CONG HÒA xÄ HOI CHU NGHÏA VIET NAM ÐQc lâp - T u. do - I-Ianh phúc KÉT QUÅ THI KET THÚC HQC PHAN CAO HQC Trần thuật (tiếng Anh: narration) là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định. Vai trò của trần thuật rất lớn. UÝ BAN NHÂN DAN TiNH KON TUM SÓ:26 /QÐ-UBND CONG HÒA xà HOI CHÜ NGHÎA VIET NAM ÐQc lâp - TV do - H?nh phúc Kon Tum, 'agày ðC3CYF. 49truyện khá dài do sự xuất hiện của nhiều đoạn miêu tả cảnh vật, diễn biến tâm trạng,khắc họa cụ thể về chân dung, nhắc lại những hồi ức xen lẫn vào khi trần tái hiện câu chuyện, Mạc Can đã thể hiện một lối kể chuyện khá độc đáokhông như lối kể truyền thống. Cốt truyện không theo trật tự biên niên mà phá vỡtính tuyến tính và tính thống nhất về thời gian của cốt truyện truyền thống. Cốttruyện của tiểu thuyết xoay quanh hai tuyến sự kiện và dòng hồi ức. Tuyến sự kiệnmở ra một câu chuyện thế sự về cuộc đời của những con người trôi dạt phiêu linh vềcơm áo ở Nam Bộ một thời. Chen vào đó là mảng hồi ức tâm tình đầy xúc cảm bấtchợt từ phía người kể, một kẻ sớm già trước tuổi khi chứng kiến quá nhiều nỗi đauthương của gia đình, của người thân trên con đường mưu sinh. Hai tuyến cốt truyệnnày hòa quyện, đan xen hầu như không theo một trật tự nào. Sự kiện, biến cố đãkhơi gợi những hồi ức suy tư miên man không dứt và trong dòng hồi ức suy tư ấy,sự kiện lại hiện về chắp nối quá khứ với hiện tại và góp phần dẫn dắt câu chuyện cứ thế dần được mở ra. Thủ pháp đồng hiện do đó đã được tác giả sửdụng có hiệu quả. Giữa những sự kiện được kể, hồi ức về quá khứ cứ ùa về chenngang dòng tự sự. Vì thế giữa các đoạn không có tính liên tục, liền kề, kết dính vềmặt trình tự theo tính nhân quả. Tác giả dường như không hề dụng công để sắp xếpcâu chuyện theo trình tự trước sau. Câu chuyện cứ tự nhiên chảy trôi theo dòng hồiức của nhân vật. Toàn bộ sự kiện đã được khúc xạ qua cái nhìn, cách cảm nhận chủquan và đã được chắt lọc qua tâm hồn đa cảm, đầy suy tư của người kể. Qua mànsương tâm tình của người kể, người đọc hiểu được những cảm xúc, suy tư và nhữngtrăn trở của nhân vật về kiếp người. Có lúc dòng chảy nội tâm đã trở thành đốitượng chính cho việc trần thuật và câu chuyện đã được dẫn dắt theo mạch độc thoạinội tâm trữ tình, lắng đọng chất suy tư, các ự kiện cũng được kể lại từ đó. Các sựkiện đã gắn kết với nhau từ những mảnh ghép rải rác suốt câu chuyện, trong đó cósự kiện được nói tới trong những cuộc đối thoại về sau của hai anh em, trong hồitưởng của anh Ba và cả những mảnh hồi ức vụn vặt khi nhớ khi quên của cô đàophóng dao khi về già phải sống như “một đứa trẻ già cỗi suy dinh dưỡng héo hắt,gầy nhom”. Ví như ở đoạn kể về cái đêm biểu diễn cuối cùng trước khi cô em bịnạn do anh mình phân tâm trong khi phóng dao, tác giả hoàn toàn không giải thíchnguyên nhân trước đó điều gì làm cho người anh phân tâm. Điều này chỉ được nói 50đến trong cuộc trò chuyện của hai anh em khi đã về già. Người đọc chỉ hiểu đượcnguyên nhân khi đọc đoạn đối thoại của Bà Tư nói với anh Ba của mình “Anh đâucó biết, tối hôm đó trước khi mở màn, chị Phương cho anh Hai biết tin chị có thai,cha chị nói chị phải về nhà ngay lập tức. Ông muốn gả chị cho người khác một cáchgấp rút, anh Hai mình phân tâm là đúng, nhưng tức cười… sự phân tâm này lại ảnhhưởng nặng nề tới nhiều người khác”[5, Và trong mảng hồi ức của cô đàophóng dao, người đọc mới hiểu được sự việc xảy ra trong đêm diễn kinh hoàng vànỗi đau của người phải dùng tính mạng của mình đánh đổi cho cuộc mưu sinh nhọcnhằn “Em cúi mặt xuống nhìn mảnh ván dưới sân khấu, biết bao lần em vẫn nhìnxuống chân mình để khỏi thấy những lưỡi dao. Lần này em nhìn máu của em nhỏxuống đó, một lưỡi dao chém vào bả vai, ban đầu em không thấy đau… mà ngạcnhiên, bởi vì em đâu có ngờ như vậy. Sau đó trộn lẫn với cái đau và những giọt máumới cảm thấy mình buồn rầu làm sao. Trên thế gian này chắc chỉ có mình em là cóđược nỗi buồn đó anh ơi”[5, phóng dao trong thực tế có lẽ chỉ diễn ra trong vài phút nhưng lại đượctác giả kể lại đến khoảng 15 trang. Nhịp điệu trần thuật như được kéo giãn ra chậmchạp chứ không đi nhanh đến kết thúc do nhiều lần sự việc bị cắt ngang bởi dòngsuy tư miên man không dứt của nhân vật. Và phần kết thúc đoạn truyện đầy kịchtính này không phải kể về màn phóng dao của người anh thành công hay không màlà suy tư của nhân vật “tôi” với câu hỏi muôn thuở “tại sao” đầy trăn trở, day dứt“tại sao tôi không được sống bình thường như những người khác chung quanh tôi,tại sao tôi dốt nát mê muội, tôi có quyền được sống làm người, được học hành, yêuthương và có hạnh phúc chứ”[5, sát Tấm ván phóng dao chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm có đếnhơn 160 tác giả sử dụng dấu ba chấm lưng chừng trong câu. Đây là một dụng ýnghệ thuật, Mạc Can tạo ra khi đọc có cảm giác như chùn lại, có những khoảnglặng, khoảng trống mà người đọc cần suy nghĩ và điền vào điều mà tác giả chưa nóihết. Trong những giấc mơ của Anh Ba cũng thế, đang mơ màng, trôi cảm xúc theonhững ước vọng xa xôi, bỗng dưng lại giật mình tỉnh giấc. Anh Ba bàng hoàng, lânglâng không biết khi nào là thật, khi nào là mơ, anh lại đặt ra những câu hỏi “tại sao”,và khi đặt ra không bao giờ anh trả lời được. Phải chăng chính những chiêm 51nghiệm, suy tư của người đọc sẽ thay anh trả lời những câu hỏi trên một cách trọnvẹn hơn. Hay lúc Mẹ anh thường ngồi xem bói với những con bài đen đỏ. Dẫu bàbiết cuộc đời mình chẳng thể nào thay đổi được, nhưng bà vẫn hy vọng, niềm hyvọng mong manh còn sót lại như yếu tố tâm linh nào đó cầu mong cuộc đời bà, giađình có cuộc sống khá hơn. Đọc đến đây, nhịp điệu câu chuyện chậm rãi, dư âm củacảm xúc đọng lại, độc giả lắng lòng lại trước sự nhỏ bé của thân phận người, vậy, thông qua nhịp điệu trần thuật chậm rãi, khoan thai Mạc Can đãtìm được nhịp điệu trần thuật phù hợp để tái hiện sinh động thế giới tâm hồn sâu sắccủa con người. Tiểu thuyết gợi cảm giác dàn trải, kết cấu không theo tuyến tính thờigian, có sự kết hợp linh hoạt giữa kể, miêu tả nội tâm, độc thoại và hồi tưởng. Đằngsau tác phẩm như ẩn vào đấy con người của chính nhà văn, đồng thời gửi gắm baonhiêu tâm tư, cách nhìn nhận, khám phá về cuộc sống của những người nghệ sĩ phảilà kiếp tằm nhả tơ trả nợ cho đời. Chính nhịp điệu này đã góp phần hình thành nênnét trần thuật đặc sắc, ấn tượng trong tiểu thuyết của Nhịp điệu trần thuật nhanh, gấp gápBiến cố và thời gian vận động sẽ ảnh hưởng, chi phối tốc độ, nhịp điệu trầnthuật trong tác phẩm. Với một biến cố lớn xảy ra trong một khoảng thời gian ngắnthì sẽ gây ấn tượng về sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Ngược lại, biến cố ítsẽ gây ấn tượng về sự chậm chạp. Yếu tố tạo nên nhịp điệu trần thuật là những hiệntượng, sự kiện, tình tiết được đan cài, xen kẽ bởi các thủ pháp của nhà văn. Ngoàira, theo quan niệm của Genette thì muốn khám phá nhịp điệu trần thuật trong tổngthể chung của tác phẩm tự sự, đầu tiên phải xem xét về các vận động từ trong vănbản. Genette khẳng định rằng “nếu đem số trang dành cho một một vài sự kiệnhoặc một một vài phần của văn bản truyện để chỉ khoảng thời gian thực tế năm,tháng, ngày… tương ứng của câu chuyện được kể thì sẽ thấy được sự biến đổi củanhịp điệu kể chuyện” dẫn lại theo Nguyễn Mạnh Quỳnh.Trong tiểu thuyết Tấm ván phóng dao của Mạc Can, chúng tôi nhận thấy tácgiả kể với nhịp điệu nhanh, nhiều đoạn diễn biến mạch truyện gấp gáp. Mặc dù,trong tác phẩm này, cốt truyện không nhiều sự kiện, song do áp lực của thời gian vàthủ pháp kể của tác giả nên diễn biến tâm lý của nhân vật, của các sự kiện, biến cố 52vận động liên tục đã tạo ra nhịp kể nhanh, gấp gáp. Phải chăng đây là cách nhà vănmuốn hướng câu chuyện hiện thực khách quan đoạn diễn ra màn phóng dao, những sự kiện, chi tiết không được sắpxếp theo trình tự tự nhiên mà xáo trộn, đảo lộn thời gian đan xen giữa quá khứ vàhiện tại. Người đọc phải kết nối các sự kiện trong dòng hồi ức của nhân vật thì mớibiết được sự việc đã xảy ra. Nghệ thuật kể chuyện đã tạo cho người đọc cảm giáccăng thẳng hồi hộp như đang xem một bộ phim có nhiều kịch tính. Những âm thanhsống động, tạp nham của rạp hát làm cho mọi thứ như khẩn trương hơn “Vẳng lại từtrước tấm màn nhung dầy mo, là một cõi nào khác, luôn luôn là tiếng náo động nhưđịa ngục, tiếng nói chuyện ồn ào, tiếng cãi nhau, kích động, chửi thề, tiếng con nítkhóc, tranh giành chen lấn chỗ ngồi. Tiếng rao bán quạt giấy, mía ghim, cốc ổi, lẫntrong không khí nóng nực, nồng nặc mùi hôi, mùi thuốc lá nặng, mùi nước giải vàphân dơi”[5, Khi ấy người anh đã phân tâm lúc đang điều khiển mười hailưỡi dao phóng về phía tấm ván mà ở đó có cô em gái tội nghiệp đang đứng. Mànphóng dao được miêu tả đầy căng thẳng từng bước một, từ lúc anh Ba làm cái việcthường ngày là tưới cho mềm tấm ván rồi vác nó lên sân khấu đến từng hành động,cử chỉ của diễn viên biểu diễn khi lần lượt xuất hiện để bắt đầu cho màn diễn. Vàtrước mỗi lần phóng dao, “người cõi trên” đứng sau tấm ván luôn mang trong ngườitâm trạng bàng hoàng, lo lắng cho đứa em gái “trái tim tôi cứ đau nhói trước giờbiểu diễn, trong bối cảnh mọi người đều hân hoan, hàng ngàn lần không lần nàokhác, đêm nay anh tôi khác thường hơn mọi đêm, tim tôi càng đập mạnh hơn”[5, Khi người đọc căng thẳng chờ đợi sự việc xảy ra thì tác giả lại hướng sựchú ý của người đọc đến những yếu tố bên ngoài Điệp bị đám du côn vây đánh, hìnhảnh Phương ngồi ở hàng ghế khán giả đàng sau là người đàn ông lạ. “Chếch về phíatrái sân khấu có một người làm tôi khó rời mắt, người đàn ông nầy cao tới nỗi bấtbình thường, ông ta nổi bật trong đám đông, trên ngực mang chiếc máy ảnh lớn, cũkỹ, đôi mắt như cá chết đục ngầu, u ám lạ kỳ, ông ta chính là, con cá ngồi sau lưngchị Phương, con cá nầy bơi tới gần sân khấu từ lúc nào tôi không biết. Tôi chưa biếtmặt quỷ sứ, như mẹ tôi thường kể chuyện con người lúc chết, lũ quỷ kéo tới mà kẻnầy là hiện thân. Chung quanh ông ta là một cái gì lạnh tanh mờ tối, hầu như khôngcó ai trông thấy ông ta ngoài tôi, ông ta nháy mắt với tôi, rồi dùng một ngón tay chỉ 53lên môi, bỗng nhiên tôi run lên khi nhìn cặp môi ông ta động đậy tôi nghe vẳng lạitiếng thì thầm khàn đục Con dao, con dao?”[5, Những chi tiết này có thểlàm cho người đọc phân tán sự chú ý theo dõi nhưng lại có tác dụng gia tăng sự hồihộp chờ đợi kết cục câu chuyện khi sự việc đang ở cao trào “Chú Thành lia haichiếc đùi trống, lần nầy ở rìa mảnh da dê, trên mảnh da con vật chết khô tan xác tộinghiệp, căng cực thẳng ba sợi lò xo, động, nhẹ tới nó lập tức nó kêu lên, một giọngthan rè rè. Đây là thế phóng dao nghiêng người, người phóng dao xoay tròn theo vàinhịp nhạc, người đứng trước tấm ván phải khom lưng, cúi đầu cho những lưỡi daocắm chung quanh cằm và gáy. Tai tôi đã quá quen với tiếng trống của chú Thành,cứ mỗi lần lưỡi dao của trò- phóng- chung- quanh- đầu nầy phô diễn, dao cắm vàomảnh ván, chú lại đập dùi lên cái dĩa đồng”[5, Chen vào đó là dòng tâm lýcũng đang diễn ra căng thẳng của chính người kể, người anh Ba đứng sau tấm vánđang hồi hộp lo âu cho số phận của em gái và dự đoán có điều bất thường sắp xảyra. Người đọc như nghẹt thở, thấp thỏm chờ đợi sự việc tiếp theo là như thế nào khi“Tôi- nín- thở- đếm- theo- từng- tiếng- đĩa- đồng- vang một... hai... ba... bốn...năm... sáu... bảy... tám... chín. Trong không khí nóng như lửa địa ngục, tôi nhìn thấycả những người cởi trần, đang hết sức khích động, có người nhảy chồm lên lưng ghếnồng nhiệt vỗ tay, nhiều tiếng chắc lưỡi ghê rợn, đám con nít vẫn cứ chen lấn trênthềm sân khấu cạnh ban nhạc đệm”[5, Đó không phải là những biểu hiệntâm lý đơn giản mà là một phức hợp những sắc thái cảm xúc đan xen hồi hộp, lolắng, đau đớn, phẫn uất như điên cuồng muốn đập phá một cái gì đó để giải tỏa,thậm chí anh đã nắm lấy cán con dao làm cá của người mẹ mà anh luôn giắt sau tấmván. Mọi phẫn uất, tức tưởi, xót xa bấy lâu nay bị dồn nén quá mức, chỉ cần một lựcnhỏ tác động thì mọi kiềm nén bấy lâu đã bật tung. Đến đây tác phẩm như có độcăng hết mức, sức dồn nén đến mức tối đa, không được một trang giấy nhưng lại tạothành chấn động, những mảnh chắp vá của cuộc đời ám ảnh theo suốt cuộc đời củaÔng Ba và Bà chung, ở tác phẩm, nhà văn chú ý xây dựng tình huống giàu kịch tính,sử dụng nhiều đối thoại ngắn để tạo độ căng cho mạch truyện. Với sự lựa chọn này,nhà văn đẩy nhân vật vào những hành động mang tính bước ngoặt nên nhịp điệu 54trần thuật chủ yếu nhanh, gấp gáp, tuy nhiên nhịp điệu này không có nhiều trongtiểu ván phóng dao là lát cắt từ những mảnh ghép vụn vặt cuộc đời gia đìnhgánh xiếc Nghệ Tinh. Chỉ vỏn vẹn không đầy 200 trang, nhưng nó là bản hòa tấuâm hưởng giàu cung bậc. Từ nhẹ nhàng, sâu lắng bởi những khúc ca du dương, âmthanh ngọt ngào dịu êm của khung cảnh xóm nghèo nơi miền quê Lục tỉnh. Đếnnhững âm thanh bổng trầm đôi khi lạc điệu bởi những giấc mơ của Anh Ba, bị đứtchừng khi choàng tỉnh giấc. Tất cả như điệu slow chậm rãi, khoan thai, để lại dư batrong lòng độc giả. Có lúc lại ngân vang, réo rắt thôi thúc chờ đợi sự việc tiếp theo,căng thẳng đến nghẹt thở. Bản giao hưởng ấy phải chăng là “cung đàn lỗi nhịp” màcuộc đời người nghệ sĩ hát rong nếm trải. Để rồi sau bản hòa tấu đầy cung bậc ấy,hòa quyện lại là nỗi niềm, suy tư, trắc ẩn về những mảnh đời, độc giả cảm thônghơn, yêu thương hơn nhân vật và yêu luôn cả cuộc đời nghệ sĩ Mạc Giọng điệuĐọc truyện của Mạc Can ta thấy giọng văn chân thật, giản dị và bản không học nhiều nhưng với sự khao khát với con chữ, khao khát được viếtđược giãi bày, vì vậy văn ông giản dị đến không ta khen văn Mạc Can đơn giản, dễ hiểu, dễ gần, không có những từđánh đố người đọc, không có sự trau chuốt rắc rối như lối hành văn của những vănsỹ trẻ. Đó là thứ văn chương bình dân, thứ văn chương dành cho số đông. Nó đứngsang một bên, không chung hàng, chung lối với những thứ văn chương chỉ được chichút về giọng điệu, về hình thức… Nó thể hiện sự tôn trọng của người viết vớingười đọc. Nó là cuộc trò chuyện với độc giả, thông qua một trung gian, ấy là Giọng điệu dân dã mộc mạcỞ Tấm ván phóng dao, ấn tượng đầu tiên mà độc giả bắt gặp ở văn phongMạc Can là giọng điệu dân dã, mộc mạc trong những trang văn tả cảnh thiên nhiên,trời mây sóng nước, cảnh sinh hoạt của những con người phiêu linh, trôi nổi trênchiếc ghe đoàn xiếc. Đó là những trang viết về những “cơn mưa lúc nửa đêm” vớinhững tiếng “mưa rơi lộp độp trên mái nhà lồng chợ vắng tanh, sân khấu không ánh 55đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mại gió nước, tiếng ếch nhái ồmộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh. Tiếng mưa rơi hoài, não nuột suốt canhthâu… trong mưa, từ cõi nào vẳng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca củakiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng, không khác gì cuộc đời những người hátrong!”[5, Câu văn êm ả như ru, những cơn mưa làm xót xa nỗi lòng củacon người “có trái tim quá lớn” như nhân vật tôi. Những đêm mưa làm cõi lòngthêm thấm lạnh, nhân vật càng thấm thía cái niềm đau và nỗi buồn về kiếp hát rongtrôi nổi. Giọng văn dân dã, mộc mạc, đượm buồn, câu văn có chất thơ, để khi đọcđến đâu, chúng ta như lắng lòng lại, cảm thông sâu sắc cho số phận, kiếp người lênhđênh trên sóng điệu dân dã, mộc mạc này giúp Mạc Can trần thuật một cách dễ dàngvới lời văn gần với văn nói, ở đó có sự mộc mạc, dung dị khi nói về cuộc sống vấtvả mưu sinh. Sự thiếu thốn về vật chất, sự khắc nghiệt của lòng người, của thiênnhiên được trải điệu dân dã, mộc mạc xuất phát từ chính con người nhà văn, cũng nhưcảm quan của chính tác giả về nhân vật của mình. Giọng điệu ấy được thể hiện bằngngôn ngữ nhân vật luôn mang đậm chất Nam Bộ, giàu tính khẩu ngữ “Lẹ tay thìcòn, chậm tay… cũng còn”; “Trời ơi ai mà ác nhơn sát đức vậy không biết”; “Chamẹ sanh con, trời đất sanh tánh”, hay “Tụi nó móc túi người ta chớ nó móc túi ôngđâu mà ông lo chuyện ba láp, nó thù vặt chém lén là mệt nha, nó tiểu nhơn đánh lénsau lưng mình phải sợ chớ”, “ổng đen thui nên đặt ổng tên là ông lô xí sộ”, “Dạ tuité xuống giếng, may mà má tui hay kịp vớt lên, không thì tui chết rồi, rối cái tuibịnh ban cua tóc rụng hết ráo, còn nữa, hồi hai tuổi tui nghe má tui nói lại, tui téxuống sông, chìm lỉm, vớt lên chết luôn mấy ngày… tự nhiên bây giờ tánh tui hơitưng tưng”.Bên cạnh đó nhà văn thể hiện ngôn ngữ đối thoại qua từ ngữ chân chất, mộcmạc gần gũi với ngôn ngữ đời thường “bà Trần lấy làm lạ hỏi chú Bê, bởi chú haynói chuyện với con bà- Chú Bê thằng Ba bị cái gì vậy?Chú Bê cười ruồi 56- Nó bị người khuất mày khuất mặt bắt, tại đêm nào nó cũng đứng sau gòmả!Bà Trần lại hỏi- Trời… trời, nó đứng ở ngoải làm cái gì vậy hỡi trời?” [5, ván phóng dao là lời thủ thỉ tâm tình của tác giả về một số kiếp cơ cựcnghèo hèn. Truyện của ông không ồn ào, gay gắt những mâu thuẫn xung đột, khônglà sự phản kháng mạnh mẽ, không có những tính cách nổi bật mà hấp dẫn bởi tấmlòng yêu thương của tác giả, bởi cách viết khá riêng và độc đáo. Sinh ra và lớn lêntrong cảnh đói khổ, Mạc Can hơn ai hết thấm thía sâu sắc về cuộc sống của nhữngsố phận nghèo khổ, bất hạnh. Giờ đây, qua tác phẩm của Mạc Can chúng tôi dễnhận thấy cuộc sống của những người dân thôn quê, nổi trôi lênh đênh trên sóngnước một cuộc sống lang thang phiêu bạt. Có thể nói, giọng điệu dân dã mộc mạclàm nên chất riêng cho Mạc Can, là “đặc sản” của nhà văn Nam Giọng tâm tình, thủ thỉ, giàu chất thơMỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau, nhưng nó luônthống nhất trong một khuôn giọng điệu cơ bản và chủ đạo nào đó. Giọng thủ thỉ tâmtình với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện từ trước, và trong các thời kỳ văn học,giọng điệu này luôn được sử dụng và mang sắc thái riêng. Điều đó cho thấy giọngthủ thỉ tâm tình không phải là sản phẩm mới, đặc sản riêng của Mạc Can. Ở đâyMạc Can đã vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo những dụng ý riêng củamình. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình hiện diện trong tác phẩm nhưng rất khó nắm thẩm thấu vào tất cả những yếu tố trong tác phẩm. Nó có thể được tạo ra từnhững khoảng trống, từ những điều không được nói tới trong tác phẩm. Vì thực chấtgiọng điệu thủ thỉ tâm tình chỉ có thể lĩnh hội, cảm nhận thông qua chính quá trìnhđọc, cảm nhận từng câu từng chữ, qua lối diễn đạt, ngôn ngữ của những hình ảnh,sự cộng hưởng giao thoa thẩm thấu, xuyên thấm vào nhau của tất cả những yếu tốtrong tác chiếu vào Tấm ván phóng dao, Mạc Can đã thể hiện loại giọng điệu đặcbiệt này. Đây là hệ quả của cách nhìn người, nhìn đời đầy tính nhân văn của Can không thích “nống lên thống thiết” Lại Nguyên Ân mà thích phô bày cái 57nôm na, thật thà đáng yêu, cái thủ thỉ, tâm tình. Chất giọng ấy phù hợp với việcmiêu tả đời sống của người dân nông thôn nghèo, những con người có cuộc sốnggiản dị. Giọng văn Mạc Can trầm, sáng, gần với giọng truyện cổ tích, nhịp vănchậm gọn, như thủ thỉ tâm tình kể cho ta nghe về câu chuyện của cuộc đời. Giọngtâm tình trong Tấm ván phóng dao đậm đặc và thể hiện trên nhiều phương diện. Cảcâu chuyện đều mang giọng điệu đó, bắt đầu bằng cách gọi tên các nhân vật cậuBa, cô Tư, Anh Hai, chú Bê, chú Tài say đầy thân mật, đến các nhân vật trong tácphẩm đều có lai lịch, có nguồn gốc xuất thân, có ngoại hình rõ ràng để từ đó ông thểhiện cái nhìn về cuộc đời số phận của họ. Đây là câu chuyện buồn của một kiếpngười, câu chuyện đã tạo được lực hấp dẫn, lôi độc giả đi theo không ngừng từ đầuđến cuối là do những tình tiết và tâm lý nhân vật đã mật thiết lồng vào nhau trongmột bố cục, một hình thức văn phong phong phú, một giọng điệu tâm tình thu khi chúng ta cứ ngỡ như đang nghe tác giả kể lại cuộc đời mình “Không có gìlàm cho tôi sợ hơn cơn mưa lúc nửa đêm, vì với riêng tôi, nhìn giọt mưa rơi longlanh, nghe tiếng mưa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắcnhở lại quá nhiều nỗi buồn, của cuộc đời đã qua”[5, Những cơn mưa như triềnmiên, không dứt vào những tháng ngày mưa bão “Mưa rơi lộp độp trên mái nhàlồng chợ vắng tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả,buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vangvang, một lúc lặng thinh”[5, đấy chính là dư vị của “dàn đồng ca của kiếp côntrùng nơi bùn lầy nước đọng”. Theo cảm nhận của riêng “tôi”, những âm thanh nãonùng, ai oán ấy “không khác gì cuộc đời những người hát rong”[5, Âmthanh, không gian của những xóm nghèo vào đêm mưa nghe sao não nùng, thê thiết,dày đặc khắp tác phẩm, tạo nên chất tháng ngày phiêu lưu trên những dòng sông, những bến sông cùngtấm ván phóng dao, có lẽ hơn ai hết nhân vật “tôi” thấm thía nỗi lòng của ngườikiếp sống lênh đênh. Anh Ba càng thấy yêu những dòng sông trôi lững lờ, nhữnggiề lục bình bấp bênh nổi trôi vô định. Dòng sông mà đoàn hát gia đình trôi nổi theonhững ngày tháng mưu sinh, phải chăng đó là dòng đời nghiệt ngã, xô đẩy nhữngcon người sống kiếp long đong, vô định. Sau những tháng ngày lang bạt, phiêubồng trên chiếc ghe, gia đình Anh Ba cập cảng cuộc đời trên mảnh đất hắt hiu nơi 58xóm nghèo, không có một mái nhà, mà phải ở tạm. Xóm nghèo ấy nằm cạnh mộtkhu đất hoang người ta quen gọi với cái tên nghĩa địa. Gia đình ly tán, Anh Ba vàCô Tư sống trong nỗi vật vờ, nửa mê nửa tỉnh của cô em gái không biết mình đangsống hay đã chết. Giọng văn chậm rãi thủ thỉ về nỗi buồn thấm thía của kiếp làmngười “Lúc nào cũng vậy, khi tôi nhắm mắt, ban đầu thường có những đốm sánglập loè, đó là ánh lửa trong chiếc đèn bão, thời thơ ấu của tôi, rồi là chữ chỉ có chữ,tôi khát chữ tới độ điên cuồng, ở kiếp nào đó, ở một thế giới nào đó… tôi là mộtnhà thông thái. Tôi biết quá nhiều điều nhưng rồi tôi đã làm sai một điều gì đó khiếncho tôi bị xoá đi, cả tôi và cả những điều tôi học, giờ đây tôi biến thành kẻ lưu đày utối, trong tiềm thức, tâm linh tôi như sương khói”[5, cách dựng truyện pha trộn giữa thực tại và hồi tưởng khéo léo cùng cáchhành văn nhiều đoạn huyền ảo với giọng điệu thủ thỉ tâm tình đã tạo cho chúng tacái ham muốn không thể nào thoát ra Giọng ngậm ngùi, cảm thươngTrong truyện của Mạc Can, như Tấm ván phóng dao, Công chúa Ôsin, tabắt gặp cái giọng điệu ngậm ngùi, cảm thương. Đó là sự cảm thương đối với cuộcsống la suy ngẫm của nhân vật, hay qua những lời nhận xét trực tiếp,góp phần làm cho nghệ thuật tự sự thêm hấp dẫn, làm cho người đọc truyện dùtrong hoàn cảnh nào cũng không thể dửng Giọng điệu chiêm nghiệm triết lýMạc Can có lối kể phần “khách quan”, “tự nhiên” tránh việc bắt nhân vậtphải gồng mình lên tự phân tích. Ở đây những tình thế đời sống được đưa ra như làđể thể hiện một sự chiêm nghiệm lẽ đời hơn là để phê phán một lối sống nào cho việc lật ra mặt trái của lối sống thông tục theo những thói quen vô thức, ởđây nhà văn càng điềm tĩnh hơn trong khi phát hiện ra những nghịch lý của cuộcđời. Tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm của Mạc Can đó là tư tưởng nhân văn, nhânđạo, lấy tình thương, sự nhân ái để cảm hoá con người. So với các tác giả khácchúng tôi có cảm giác như Mạc Can còn vướng quá nhiều duyên nợ với đời, cho Lượt xem 591 THE MOVEMENT OF THE TREND WITH THE NARRATIVEOVERVIEW IN VIETNAMESE PROSE AFTER 1975 Tác giả bài viết NGUYỄN THỊ TUYẾT MINHTrường Đại học Sư phạm Hà Nội TÓM TẮT Trần thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tự sự, có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn. Bài viết này nhằm tổng kết, khái quát hóa bình diện điểm nhìn trần thuật – một bình diện nổi bật, thể hiện rõ sự đổi mới của thực tiễn văn xuôi nước ta sau 1975 và góp phần khắc họa trung thực bức tranh văn học sử mà người đọc, người học, người dạy Ngữ văn hiện nay đang quan tâm. Từ khóa Điểm nhìn trần thuật, văn xuôi sau 1975, Việt Nam. ABSTRACT Narration is an aspect of the basic form of narrative works of art, plays a important role in conveying the artistic purpose and aesthetic attitude of the writer. This article is used for the purpose of summarizing, generalizing the narrative point of view-a prominent level. Futhermore, this article also reflects the innovation of practical prose in Vietnam after 1975 and contributes to portraying honestly the painting of literature and history which the reader, the learner, the literature lecturer are now interested in. Keywords Narrative point of view, prose after 1975, Vietnam. xx x 1. Mở đầu Trần thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tự sự, có vai trò quan trọng trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn. Nhân loại thế kỉ XXI đạt được thành tựu to lớn trong lĩnh vực tự sự/ trần thuật học – một lĩnh vực khoa học liên ngành với rất nhiều lí thuyết được khái quát từ thực tiễn phong phú của sáng tạo và tiếp nhận văn chương. Bài viết này không đi sâu vào các vấn đề lí thuyết trần thuật học mà vận dụng một số khái niệm công cụ đã được giới nghiên cứu xác lập để nhận diện, miêu tả và đánh giá về một chặng đường văn xuôi có nhiều đổi mới quan trọng ở nước ta – chặng đường từ sau 1975. Mục đích của chúng tôi nhằm tổng kết, khái quát hóa thực tiễn sáng tạo văn xuôi, góp phần vào việc khắc họa trung thực bức tranh văn học sử mà người đọc, người học, người dạy Ngữ văn hiện nay đang rất quan tâm. Trong khuôn khổ giới hạn, chúng tôi không thể bao quát mọi vấn đề của nghệ thuật trần thuật mà chỉ tập trung vào một khía cạnh nổi bật, thể hiện rõ sự đổi mới của văn xuôi nước ta 40 năm qua, đó là vấn đề điểm nhìn trần thuật. 2. Nội dung Điểm nhìn là vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm nghệ thuật. Nó hiện diện khắp nơi, chi phối hầu hết các yếu tố trên các cấp độ của văn bản; là “vị trí từ đó người kể nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn”. Trên thực tế, “giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ thay đổi điểm nhìn”1. Mặt khác, thông qua điểm nhìn trần thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và nhận ra đặc điểm phong cách của nhà văn. Khảo sát điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, chúng tôi nhận thấy những xu hướng vận động như sau Xu hướng nhạt dần điểm nhìn đại diện cộng đồng, gia tăng điểm nhìn cá thể hoá Mỗi kiểu tư duy văn học là sản phẩm của một tâm thức văn hoá, một tâm thế sáng tạo cụ thể. Trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, nhà văn được đặt ở vị trí trung tâm của đời sống và đại diện cho lợi ích cộng đồng. Người kể chuyện trong văn xuôi Việt Nam từ 1945 – 1975 thường đồng nhất cái nhìn của mình với chân lí. Đó là cái nhìn “toàn tri”, được bảo đảm bằng kinh nghiệm của cộng đồng. Sau 1975, đất nước phát triển trong hoà bình, nhu cầu đổi mới toàn diện đời sống xã hội được ý thức và văn học cũng không thể viết như cũ. Từ đầu thập kỉ 80, văn xuôi bắt đầu chuyển mạnh sang cảm hứng thế sự – đời tư với điểm nhìn cá thể hoá. Mặc dù vẫn còn những tác phẩm duy trì điểm nhìn đại diện cộng đồng như Ông cố vấn, Quãng đời xưa in bóng, Đường về Sài Gòn… nhưng chúng hầu như bị lấn át so với những tác phẩm tiếp cận hiện thực bằng cái nhìn cá thể hóa, tức là bằng kinh nghiệm cá nhân. Khảo sát trên các tác phẩm được dư luận chú ý, chúng tôi thấy sự chuyển dịch điểm nhìn khá rõ. Từ 1975 đến 1980, nhìn chung văn xuôi vẫn nghiêng về điểm nhìn đại diện cộng đồng. Có thể kể đến hàng loạt tác phẩm được bạn đọc yêu thích như Tháng Ba ở Tây Nguyên Nguyễn Khải, Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra Nguyễn Minh Châu, Năm 1975 họ đã sống như thế Nguyễn Trí Huân, Đất trắng Nguyễn Trọng Oánh… Từ 1980 đến 1986, dư luận bắt đầu dành sự quan tâm hơn cho những tác phẩm mang cảm hứng đạo đức – thế sự hay đời tư với điểm nhìn của kinh nghiệm cá nhân như Đứng trước biển, Cù lao Tràm Nguyễn Mạnh Tuấn, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê Nguyễn Minh Châu, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người Nguyễn Khải, Thời xa vắng Lê Lựu… Từ 1986 trở đi, người đọc hầu như chỉ còn bị cuốn hút bởi những tác phẩm mà ở đó, số phận cá nhân trở thành đối tượng khám phá chủ yếu. Trong những cuốn tiểu thuyết được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm 1988 – 1989, chỉ có Ông cố vấn của Hữu Mai là còn thấy rõ sự chi phối của điểm nhìn cộng đồng, nhưng nó được dư luận đánh giá cao trước hết ở khối lượng tư liệu lịch sử và nhân vật Vũ Ngọc Nhạ đã được thể hiện rất “đời thường”. Ba cuốn tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn mùa giải 1990 – 1991 cùng hàng loạt tác phẩm được chú ý khác, và những tiểu thuyết được giải các năm 2000, 2005, 2006, 2007, 2009, 2011, 2012 sau này, đều được viết bởi cảm hứng thế sự với điểm nhìn cá thể hoá. Đó là Nỗi buồn chiến tranh, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Cát bụi chân ai, Bến trần gian, Hồi ức binh nhì, Ánh trăng, Cuốn gia phả để lại, Bi kịch nhỏ, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Hậu thiên đường, Cánh đồng bất tận, Và khi tro bụi, Một mình một ngựa, Đội gạo lên chùa, Trò chơi hủy diệt cảm xúc… Sự dịch chuyển từ điểm nhìn đại diện cộng đồng sang điểm nhìn cá nhân trong truyện ngắn còn rõ rệt hơn nữa. Từ những truyện ngắn gây bất ngờ đầu tiên như Hai người trở lại trung đoàn Thái Bá Lợi, Bức tranh, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu… đến các truyện ngắn được giải thưởng của Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tạp chí Thế giới mới… rồi đến truyện của Nguyễn Huy Thiệp Tướng về hưu, Muối của rừng, truyện của Y Ban Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, truyện của Lại Văn Long Kẻ sát nhân lương thiện, truyện của Nguyễn Bản Ánh trăng, truyện của Phạm Hoa Đùa của tạo hoá, truyện của Phan Thị Vàng Anh Hoa muộn, truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ Hậu thiên đường, Thành phố đi vắng… đều đề cập đến nội dung thế sự – đời tư với điểm nhìn cá thể hoá. Khảo sát trên một số tập truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn sau 1975, đặc biệt là sau 1986, chúng tôi thu được kết quả như sau – Ánh trăng tập truyện ngắn được giải Báo Văn nghệ 1991 có 12 truyện, không một truyện nào được kể bởi điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Bến trần gian tuyển những truyện ngắn được giải cuộc thi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội hai năm 1992 – 1994 có 21 truyện, chỉ duy nhất một truyện Vịt trời lông tía bay về là kết hợp điểm nhìn đại diện cộng đồng với việc miêu tả phong tục, tập quán một vùng đầm phá miền Trung. Tập này có nhiều truyện viết về đề tài chiến tranh nhưng chủ yếu gắn với điểm nhìn cá thể hoá – những trải nghiệm của cá nhân nên ấn tượng về “nỗi buồn chiến tranh” rất rõ và rất khác với các truyện thời trước 1975. – Truyện ngắn hay 1993 tập truyện do Nxb Văn học và Báo Văn nghệ ấn hành có 15 truyện, không một truyện nào được kể bởi điểm nhìn đại diện cộng đồng. – 40 truyện rất ngắn tác phẩm chung khảo cuộc thi truyện mini của Tạp chí Thế giới mới- Nxb Hội Nhà văn 1994 không có truyện nào được kể bởi điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay Bắc – Trung – Nam tuyển chọn những tác phẩm được giải trong các cuộc thi 3 miền, Nxb Hội Nhà văn, 1995 có 28 truyện, cũng chỉ một truyện Vịt trời lông tía bay về là không hoàn toàn chịu chi phối của cảm hứng thế sự với điểm nhìn cá thể hoá. – Những truyện ngắn hay tập truyện do Nxb Công an Nhân dân ấn hành 1995 có 12 truyện, không một truyện nào được kể từ điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Tác phẩm được giải Cây bút vàng 1996 -1998 tập truyện do Nxb Hội Nhà văn và Tạp chí Văn hoá văn nghệ Công an ấn hành gồm 19 tác phẩm, có một tác phẩm được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng là Cảm nhận hương hồi bút kí của Vương Trọng. – Truyện ngắn hay 2000 tập truyện do Nxb Hội Nhà văn ấn hành có 15 truyện, duy nhất truyện Trần Quang Diệu của Trần Thị Huyền Trang được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay 2004 tập truyện do Nxb Hội Nhà văn ấn hành có 28 truyện, không có truyện nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay 2005 tập truyện do Nxb Thanh Hoá ấn hành có 27 truyện, không truyện nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Văn mới 2007-2008 tuyển chọn văn xuôi của những tác giả mới và tác giả đang được mến mộ, Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hoá Đông A ấn hành có 27 tác phẩm, không tác phẩm nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Truyện ngắn hay 2009 tập truyện do Nxb Văn học ấn hành có 27 truyện, không truyện nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. – Văn mới 2012-2013 tuyển chọn văn xuôi của những tác giả mới và tác giả đang được mến mộ, Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hoá Đông A ấn hành có 27 tác phẩm, không tác phẩm nào được kể bằng điểm nhìn đại diện cộng đồng. Như vậy, thực tế khảo sát cho thấy xu hướng sử dụng điểm nhìn đại diện cộng đồng chiếm số lượng rất ít mà chủ yếu là điểm nhìn cá thể hoá. Điều này chứng tỏ nhà văn đương đại ít có nhu cầu kể lại những câu chuyện “mọi người đã biết” mà chủ yếu kể câu chuyện “như tôi biết”. Trải nghiệm riêng, kinh nghiệm riêng trở thành nhu cầu diễn đạt chính yếu. Chẳng hạn, vẫn câu chuyện về sự tích Sơn Tinh Thuỷ Tinh nhưng người đọc lại đầy bất ngờ thích thú trước cách cắt nghĩa, lí giải từ điểm nhìn cá thể hoá của nhà văn Hòa Vang. Tác giả mở đầu bằng một kinh nghiệm của cá nhân “Như mọi người đều biết…Nhưng tôi biết còn có một sự thật lẽ cố nhiên khác nữa”2. Và niềm tin quen thuộc của độc giả bắt đầu bị thử thách, để rồi cuối cùng; dù họ chấp nhận hay không cái sự thật giả định mà người viết nêu ra, thì họ cũng buộc phải biết đến một niềm tin khác. Người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường đưa ra phản đề “Tôi sẽ kể chuyện này cho anh… Tôi không chắc…”3. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, người ta nhận thấy, đó dường như là cuộc chiến tranh của riêng Bảo Ninh chứ không phải là cuộc chiến tranh đã từng diễn ra trong lịch sử. Truyện được kể bằng cái nhìn cá biệt của nhân vật Kiên – một cựu chiến binh bị chấn thương tâm lí nặng. Toàn bộ hiện thực ấy là hiện thực ảo. Những kí ức đứt quãng lần lượt hiện về. Nhà văn như muốn nói với bạn đọc đây không phải là câu chuyện khách quan đã xảy ra như mọi người đều biết mà là những gì ám ảnh nhất còn đọng lại trong kí ức riêng của một con người. Và chiến tranh được kể bằng kinh nghiệm cá biệt rất khác với truyền thống. Điều đó khiến người đọc thấm thía nỗi đau đắng tận cùng của thân phận con người trong chiến tranh, để rồi càng trân trọng hơn giá trị của độc lập tự do hôm nay. Rõ ràng, cá thể hoá điểm nhìn trần thuật khiến mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư, độc đáo và quan niệm của mỗi cá nhân nhiều khi không hoàn toàn trùng hợp với quan niệm của cộng đồng. Khi điểm nhìn được cá thể hoá cao độ, cũng đồng nghĩa với việc nhà văn chú ý nhiều hơn đến cái ngẫu nhiên, cái không tất yếu. Nhà văn không kể những câu chuyện mọi người đã biết, không đưa ra những chân lí tuyệt đối mà muốn đối thoại nhiều hơn với bạn đọc để cùng suy ngẫm. Điều đó khiến điểm nhìn trần thuật vô cùng đa dạng, phong phú. Xu hướng đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật Đây là xu hướng trần thuật khá phổ biến của văn xuôi Việt Nam sau 1975. Nếu trong văn xuôi giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật của một tác phẩm thường rất dễ xác định, vì nó nhất quán, nó đồng nhất với điểm nhìn của tác giả. Từ điểm nhìn thấu suốt ấy, tác giả sẽ cất lên tiếng nói “hướng đạo” cho người đọc. Nghĩa là chân lí cuộc đời luôn được chỉ ra một cách rõ ràng, mạch lạc. Người đọc tiếp nhận những những giá trị đã được thẩm định. Nhưng cách nói hộ, nghĩ hộ của nhà văn một thời giờ đây dường như không còn thích hợp nữa. Trình độ của bạn đọc ngày càng không ngừng được nâng cao. Cái tôi cá nhân của người đọc đòi hỏi được xác lập như một nhân vị. Hơn nữa, cuộc sống đương đại hiện ra phức tạp muôn hình, muôn vẻ và người đọc có nhu cầu đánh giá, xem xét mọi điều bằng những trải nghiệm của riêng mình. Mặt khác, văn xuôi hôm nay không chỉ phản ánh hiện thực mà còn suy ngẫm về hiện thực. Hiện thực được mở ra với biên độ vô cùng rộng lớn có hiện thực quen thuộc khả kiểm, khả tín, nhưng cũng có vùng hiện thực xa lạ, mơ hồ, bí ẩn, bất khả tín… Đối với một số tác phẩm thì hiện thực không còn là mục đích tối thượng mà chỉ là phương tiện để thể hiện tư tưởng của nhà văn. Đối với nhiều nhà văn thì không chỉ “kể nội dung” mà còn là “viết nội dung”; điều quan trọng không phải là kể chuyện gì mà chính là cách thức kể câu chuyện ấy như thế nào. Cùng viết về một đề tài, cùng kể về một câu chuyện nhưng nhà văn này kể thì hấp dẫn, lôi cuốn độc giả; còn nhà văn kia thì không. Điều này trước hết do sự đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật mang lại. Việc đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật khiến cho “khối vuông rubic” của hiện thực, của lòng người được phơi lộ; thể hiện nhu cầu khám phá bản chất cuộc sống một cách sâu sắc, thận trọng; nhu cầu bình đẳng giữa nhà văn với độc giả… Đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi sau 1975 được biểu hiện ở việc gia tăng số lượng người kể chuyện, và nhà văn trao điểm nhìn trần thuật cho mọi nhân vật, không phân biệt nhân vật chính – phụ, nhân vật tin cậy – không tin cậy… Nổi bật là các dạng thức sau đây Luân phiên, lồng ghép điểm nhìn trần thuật Đây là hiện tượng tác phẩm không mặc định ở một điểm nhìn mà luôn đan xen, dịch chuyển từ điểm nhìn này sang điểm nhìn khác. Nhiều nhân vật trong tác phẩm luân phiên nhau đóng vai trò người kể chuyện, và từng nhân vật ấy bày tỏ cách nhìn riêng của mình về hiện thực. Cũng có khi, cùng lúc tồn tại nhiều điểm nhìn, các điểm nhìn chồng lên nhau, đan chéo, móc nối với nhau để mở ra cho người đọc những khám phá mới về đối tượng. Điều này tạo nên tính phức điệu, đa âm cho câu chuyện và tác phẩm văn xuôi trở thành một cấu trúc đa tầng, cùng lúc vang lên nhiều tiếng nói khác nhau. Chẳng hạn, trước số phận cơ cực, bất hạnh của người đàn bà trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều điểm nhìn cùng soi rọi vào cái nhìn trẻ thơ, non nớt của đứa con trai kết án ông bố tàn bạo, và thề sẽ giết ông ta để bảo vệ mẹ. Nhưng con chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa can ngăn em. Nhà nhiếp ảnh thì sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng ly hôn là giải pháp đúng đắn nhất. Nhưng người đàn bà, kẻ hứng chịu những trận đòn roi tàn nhẫn và phi lý của chồng lại nhìn nhận khác hẳn bà hiểu chồng, thương con, hiểu tình cảnh nan giải của gia đình mình; biết mình phải nhẫn nhục, cam chịu để bầy con đông đúc khỏi chết đói. Bi kịch của mẹ con bà không dễ dàng giải quyết được nếu chỉ trông cậy vào thiện chí cá nhân. Người đàn bà ấy có cái trí khôn của đời sống. Bà ta không ảo tưởng “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có hiểu được người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”4. Rõ ràng, nhân vật người đàn bà hiện diện trước ống kính “vạn hoa” của tác phẩm. Và bạn đọc không dễ dàng phán xét đơn giản đúng – sai từ một phía, mà phải thận trọng cân nhắc từ nhiều phía để cắt nghĩa sao cho thấu tình đạt lí. Người đàn bà ấy vừa đáng giận lại vừa đáng thương. Phía sau gương mặt xấu xí của bà ta là vẻ đẹp ẩn khuất trong tâm hồn, vẻ đẹp của mẫu tính dám hy sinh và chịu trách nhiệm trước đàn con của mình. Trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ 5, điểm nhìn trần thuật liên tục di chuyển từ nhân vật này đến nhân vật khác. Có lúc tác phẩm được kể dưới điểm nhìn của nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ các chương 17, 19, 30, 32…; có khi được kể dưới điểm nhìn của thầy giáo Hiến các chương 1,7, 15; có lúc lại kể dưới điểm nhìn của An – người yêu Nguyễn Huệ các chương 75, 92, 97; có lúc điểm nhìn lại được giao cho nhân vật Lãng – em trai An các chương 87, 99… Rất nhiều biến cố được lí giải khác nhau từ điểm nhìn của mỗi nhân vật. Và sự kết hợp linh hoạt các điểm nhìn trần thuật khiến mỗi sự kiện của đời sống được cắt nghĩa thấu đáo, khách quan và đa diện hơn. Tác phẩm văn học khi ấy mang dáng dấp “một bản giao hưởng” nhiều bè, nhiều điệu; đạt tới hiệu quả thẩm mĩ phong phú, bất ngờ. Không chỉ luân phiên, nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau 1986 còn lồng ghép điểm nhìn trần thuật để làm mới kĩ thuật tự sự. Trong tác phẩm có sự tương tác giữa điểm nhìn của người kể chuyện với một hoặc nhiều nhân vật, tạo ra sự hoà phối, đan xen, phức hợp của nhiều kinh nghiệm, nhiều luồng tư tưởng, có khi cùng chiều, có khi đối nghịch. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly6 của Nguyễn Xuân Khánh là một ví dụ. Ở đây, người trần thuật xưng “tôi” mà nhân vật cũng xưng “tôi” giành quyền tự kể Chương II Hồ Nguyên Trừng; chương V Trần Khát Chân; chương VI Cô gái vườn mai; chương XII Đường lên Yên Tử; chương XIII Hội thề Đốn Sơn. Ta đều biết, những nhân vật lịch sử như Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân… là những con người của quá khứ, cách xa ngày nay đã sáu thế kỉ. Họ đã “an nghỉ dưới mồ” từ lâu, vậy mà trong tác phẩm, nhà văn cho họ “sống lại” để kể chuyện mình và chuyện của thời đại mình. Câu chuyện lịch sử được “hiện tại hoá” như đang vận động, đang diễn ra, đang song hành cùng con người hôm nay. Nguyễn Xuân Khánh đã tạo ra sự hoà phối của hai loại điểm nhìn điểm nhìn trần thuật khách quan và điểm nhìn chủ quan của từng nhân vật lịch sử. Tác phẩm, do đó, có cấu trúc mở, giàu tính đối thoại; nói về quá khứ nhưng chất chứa những suy ngẫm sâu sắc về hiện tại. Và những sự kiện của lịch sử luôn hiện diện trong tư thế đang vận động ở thì “hiện tại chưa hoàn thành”. Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, vai trò bình đẳng trong điểm nhìn của mỗi nhân vật khiến cho tác phẩm luôn là một cấu trúc đa tầng, đa nghĩa. Đọc văn Nguyễn Huy Thiệp đầy bất ngờ, “tiền văn” không đoán được “hậu văn”. Chi tiết nào cũng đa nghĩa, đầy sức gợi và có khả năng kích thích đối thoại rất mạnh. Tiểu thuyết Chinatown 7 cũng sử dụng kĩ thuật lồng ghép điểm nhìn cực kì phức tạp “tôi” và “hắn” là hai mà thực ra là một; “tôi” và “chị ta” cũng vừa đồng nhập vừa phân li như thế. Rõ ràng, luân phiên, lồng ghép điểm nhìn khiến chủ đề tác phẩm và tư tưởng tác giả không lộ diện, khó nắm bắt; đòi hỏi người thưởng thức nhiều suy nghĩ, nhưng cũng gợi nhiều liên tưởng khác nhau. Điều này khiến tác phẩm thực sự “là một quá trình”, khơi gợi ở bạn đọc sự “đồng sáng tạo”; đến với mỗi bạn đọc, tác phẩm không ngừng “sinh sôi” về nghĩa. Và tất yếu, xung quanh một tác phẩm dễ gây ra tranh luận trái chiều. Giao điểm nhìn trần thuật cho những nhân vật “không đáng tin cậy” Đây là hiện tượng trong tác phẩm, nhà văn giao nhiệm vụ kể chuyện cho những nhân vật dị biệt, đặc biệt – kiểu nhân vật “không đáng tin cậy”. Đó có thể là một thương binh bị chấn thương thần kinh như Kiên Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh; có thể là một hồn ma đã uống nước ở Bến Lú, Sông Mê nên nhớ nhớ, quên quên như các nhân vật Hương và Hoa Người sông Mê – Châu Diên; có thể là nhân vật bào thai đang nằm trong bụng mẹ Thiên thần sám hối – Tạ Duy Anh; có khi là một thanh niên bị điện giật chết hụt rồi bỗng có khả năng đi ngược về quá khứ Trong sương hồng hiện ra – Hồ Anh Thái… Nỗi buồn chiến tranh8 sử dụng người trần thuật không phải là cái tôi bình thường mà là cái tôi tâm hồn đã bị chấn thương tâm lí. Anh ta cũng không phải kể về chiến tranh như đang diễn ra mà là câu chuyện được nhớ lại; nhớ lại những gì ấn tượng nhất. Trong tư cách một “nhà văn phường”, Kiên luôn nhắc đi nhắc lại lời thú nhận rằng mình viết trong trạng thái “rối bời”, “bấn loạn”. Câu chuyện về chiến tranh được hiện lên trong dòng kí ức “chập chờn bất định” của Kiên… Điểm nhìn chủ quan hóa triệt để như thế, đòi hỏi ở người đọc sự ngờ vực, sự phản biện. Giao điểm nhìn trần thuật cho một nhân vật bị chấn thương như vậy, nhà văn Bảo Ninh muốn độc giả cùng trải nghiệm với một người lính “vô danh” nỗi đau đắng tận cùng của thân phận con người trong chiến tranh, để rồi tri nhận đầy đủ hơn giá trị của cuộc sống hòa bình. Mở đầu tiểu thuyết Người sông Mê, tác giả Châu Diên công khai rằng ông không định “kể lại một câu chuyện” giống với hiện thực, không nhằm giảng giải, cắt nghĩa câu chuyện bằng lôgic đời sống mà đang trình bày một “trò chơi” của văn chương “Trời và Đất đã cho sinh ra một ngày Đầu tiên, trong ngày đó có câu chuyện liên quan đến cô gái tên là Hoa… Có điều khó hiểu và cũng gây khó dễ cho người kể chuyện, ấy là khi thì cô này nghĩ mình là Hoa, có khi chính cô lại cho rằng mình là Hương”; “Cô nhớ và không nhớ. Thực tình cô cũng có nhớ, nhưng rồi nhớ nhớ quên quên, thành thử là quên và nhớ lẫn lộn. Cô làm cho nhiều người ra trình diện trong cuốn sách này cũng có tật giống cô, ấy là cứ nhớ nhớ quên quên. Và có khi cô còn làm cho cả những ai tiếp xúc với các nhân vật trong sách này cũng lây cái tật quên quên nhớ nhớ ấy…”9. Nhân vật kể chuyện ở đây thật “không đáng tin cậy”. Cô ta chỉ là một hồn ma. Ngay từ đầu tác phẩm, tính chất hư cấu, bịa đặt cố ý lộ liễu nhằm gây ra sự ngờ vực với người đọc. Thậm chí tính “trò chơi” được tiết lộ ngay từ tên truyện Người sông Mê. Tác phẩm không chia chương mà chia khúc, vừa theo trình tự kiếp luân hồi như quan niệm nhà Phật, vừa ngẫu hứng, vu vơ Kiếp ảo, Kiếp gốc, Kiếp thực… Hiện thực giả định này buộc người đọc phải có cách ứng xử khác văn chương có nhất thiết chỉ có mục đích phản ánh hiện thực không? Văn chương còn có thể phản ánh những suy tư, mơ mộng về những vùng hiện thực bất khả tri – hiện thực của tâm linh, ảo giác. Nhân vật trần thuật ở đây không được điển hình hoá mà rất dị biệt, cá biệt, nhưng lại tạo ra một hiệu ứng thẩm mĩ bất ngờ với người đọc. Đọc xong câu chuyện, người ta bỗng thấy “thương người và lại thương thân”. Tiểu thuyết Thiên thần sám hối xác nhận “trò chơi” bằng chính lời Tựa “Câu chuyện khó tin này là của một đứa trẻ còn ở trong bụng mẹ. Nếu đọc xong mà quý vị vẫn không tin thì cũng không sao” 10. Và người trần thuật xưng “tôi” chính là cái bào thai ấy. Chỉ còn 72 giờ nữa là thai nhi phải chào đời. Nó đang trăn trở có nên ra đời hay không? Ban đầu thai nhi “khao khát chờ đến cái ngày vĩ đại ấy”, nhưng rồi nó quyết định cứ ở trong bụng mẹ. Bởi nó đã nghe được câu chuyện một bà mẹ sinh con rồi bỏ con tại bệnh viện; chuyện một cô gái liên tục bịsảy thai vì quả báo do người chồng độc ác đã từng giết người; chuyện một gã thanh niên coi đứa con là tội nợ… Từ đó, tác phẩm gợi ám ảnh nơi độc giả về một hiện thực trớ trêu rất đáng bận tâm của đời sống đương đại những nhầm lẫn đáng buồn của con người, những dục vọng tăm tối đang hủy hoại cái đẹp và ăn mòn các giá trịsống… 3. Kết luận Có thể thấy, xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 là không ngừng gia tăng điểm nhìn cá thể, và đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật. Trước áp lực cạnh tranh từ các phương tiện giải trí – truyền thông, lối sống và nhịp độ sống của thời đại kỹ trị… buộc người viết văn phải nỗ lực kiếm tìm hình thức mới cho văn xuôi Việt Nam đương đại. Dường như nhà văn hôm nay đang cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Có thể viết văn như thế nào? Khi tái hiện hiện thực đời sống, nhiều nhà văn có xu hướng vượt khỏi mô hình trần thuật quen thuộc, xác lập mối quan hệ mới giữa văn chương với hiện thực, giữa nhà văn với bạn đọc để tạo ra những kinh nghiệm đọc mới. Đa dạng hóa điểm nhìn, phá vỡ cái nhìn toàn tri; văn xuôi đương đại tìm đến những điểm nhìn mang rõ dấu ấn cá nhân, cá thể. Văn học của điểm nhìn nhìn trần thuật như vậy đúng là không dễ đọc với mọi độc giả, đặc biệt là những độc giả yêu thích sự mực thước, hiền lành. _________1 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên 2010, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2 Hòa Vang 1996, Sự tích những ngày đẹp trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 3 Nguyễn Huy Thiệp 2001, Mưa Nhã Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 4 Nguyễn Minh Châu 1999, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội, 5 Nguyễn Mộng Giác 2003, Sông Côn mùa lũ 2 tập, Nxb Văn học & Trung tâm nghiên cứu Quốc học. 6 Nguyễn Xuân Khánh 2000, Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ. 7 Thuận 2005, Chinatown, Nxb Đà Nẵng. 8 Bảo Ninh 2005, Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội Nhà văn. 9 Châu Diên 2005, Người sông Mê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 10 Tạ Duy Anh 2004, Thiên thần sám hối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Bình 2012, Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi 1999, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn 2006, Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Trần Đình Sử Chủ biên 2004, Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 5. Trần Đình Sử Chủ biên 2008, Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử, Phần 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 6. Các tuyển tập truyện ngắn, tiểu thuyết, kí Việt Nam sau 1975. Nguồn Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô Hà Nội,số 3/2016, trang 19-29 Thánh Địa Việt Nam Học Để hình thành một bài văn hay bạn cần sử dụng tới rất nhiều loại câu như câu hỏi tu từ, câu cảm thán,... tuy nhiên mẫu câu được sử dụng nhiều nhất có lẽ là câu trần thuật. Vậy câu trần thuật là gì? Đặc điểm của câu trần thuật ra sao và viết như thế nào mới đúng? Tất cả những thắc mắc vừa rồi sẽ được giải đáp qua bài viết dưới đây. 1. Khái niệm câu trần thuật là gì? Câu trần thuật là một trong các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt hay còn được hiểu là mẫu câu thuật lại sự việc, hành động hay sự kiện đã diễn ra ở thời điểm trước đó. Mục đích chính của mẫu câu này chính là dùng để kể lại, miêu tả, thông báo hay nhận định về vấn đề, hiện tượng hay trạng thái của sự vật nào đó. Khái niệm câu trần thuật là gì? Khi sử dụng mẫu câu trần thuật người ta không dùng nghệ nhuật nhấn nhá để gây sự chú ý. Chúng sẽ được nói với giọng nói bình thường, đôi khi có xen lẫn một số từ biểu cảm nhưng mục đích thì vẫn không hề thay đổi. Thông thường, trong giao tiếp người ta dùng câu trần thuật để thuật lại sự việc vậy nên câu trần thuật còn được gọi với cái tên khác là “câu kể”. >> Xem thêm Làm sao để học giỏi văn 2. Đặc điểm của câu trần thuật Nhìn thì có vẻ đơn giản nhưng đừng vội mừng bởi vì bạn cũng cần bỏ thời gian để nắm rõ bản chất cũng như đặc điểm của mẫu câu này nếu như có ý định chinh phục môn Văn đấy nhé. Sau đây là một số đặc điểm nổi bật có ở câu trần thuật, mời bạn tham khảo - Câu trần thuật nên sử dụng để mô tả, tường thuật hay trình bày lại sự việc nào đó mà bạn được chứng kiến trực tiếp, không nên nghe từ nhiều người khác nhau mà áp dụng mẫu câu này, nó sẽ ảnh hưởng tới kết quả cuối cùng. Đặc điểm của câu trần thuật - Câu trần thuật cũng mang đặc điểm về hình thức như các loại câu nghi vấn, câu cảm thán hay câu cầu khiến. - Mỗi khi kết thúc câu trần thuật, hãy sử dụng dấu chấm để người đọc phân biệt với các câu khác. Nếu câu mang nội dung đặc biệt mà bạn muốn nhấn mạnh thì có thể sử dụng dấu chấm than hay chấm lửng để thu hút người đọc. Nói chung, câu trần thuật thì không có quá nhiều đặc điểm, chủ yếu là những kiến thức cơ bản vừa rồi, chỉ cần nắm rõ chúng thì bạn sẽ biết cách sử dụng trong các trường hợp khác. 3. Câu trần thuật có chức năng gì? Tìm hiểu đặc điểm của câu trần thuật đã xong, vậy bạn có biết chức năng của mẫu câu này là gì không? Câu trần thuật thường không có dấu hiệu để người đọc nhận biết, trong một đoạn văn có thể có rất nhiều câu trần thuật khác nhau. Vì vậy người đọc cần phải đọc và quan sát thật kỹ để nhận ra đâu là câu trần thuật và hiểu rõ dụng ý của người viết. Một dấu hiệu đơn giản nhất mà bạn có thể nhận biết đó chính là dấu chấm câu, vậy hãy dựa vào đây để phán đoán nhé. Câu trần thuật có chức năng gì? Những ai đã tìm hiểu về câu trần thuật thì có thể dễ dàng nhận ra rằng câu trần thuật là thành phần chính trong các bài văn viết, văn xuôi hay tiểu thuyết dài tập,... Nói cách khác nó góp phần tạo nên những tác phẩm văn học nổi tiếng và đặc sắc trong các thể loại văn học Việt Nam cả xưa và nay. Chức năng chính của câu trần thuật là kể hoặc tường thuật, tuy nhiên diễn tả như thế nào thì còn tuỳ vào cách nhìn nhận và cách hành văn của người viết. Đôi khi, câu trần thuật còn được sử dụng để yêu cầu, bộc lộ cảm xúc của người viết về một sự vật, hiện tượng nào đó. >> Xem thêm Dạy tiếng việt cho người Hàn 4. Đặt câu trần thuật như thế nào mới đúng? Bạn đã biết đặt câu trần thuật chuẩn như thế nào chưa? Có thể trước đây bạn đã từng được học, thậm chí là học rất kỹ thế nhưng do thời gian và hoàn cảnh thì hiện tại trí nhớ của bạn lại chẳng có chút ấn tượng nào về nó. Giúp các bạn tìm lại ký ức về bài học này, biết cách đặt câu trần thuật sao cho đúng, đã tổng hợp và chia sẻ một số kiến thức hữu ích dưới đây Tìm mục đích sử dụng câu trần thuật Khi bàn luận về một vấn đề nào đó, điều quan trọng nhất là bạn phải xác định được mục đích của những điều mình nói. Với câu trần thuật, rất nhiều mục đích khác nhau mà bạn có thể chọn, vậy nên để sử dụng đúng nhất mẫu câu này thì cần xác định mục đích đúng đắn. Đặt câu trần thuật như thế nào mới đúng? Cần xác định thành phần chủ chốt của câu trần thuật Bài học về câu trần thuật có thể khiến bạn quên thế nhưng có lẽ kiến thức về cấu trúc của câu thì hẳn là bạn vẫn còn nhớ chứ. Một câu bình thường hoàn chỉnh sẽ bao gồm chủ ngữ và vị ngữ. Vậy nên nếu không thể thêm các tiền tố, hậu tố bên cạnh thì bạn cũng đừng lược bỏ bớt đi thành phần của nó nhé. Hãy đặt câu với đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, tất nhiên đó phải là câu có nghĩa và phù hợp với hoàn cảnh mà bạn đang giao tiếp. >> Xem thêm Bài viết về mùa xuân Bổ sung các thành phần phụ trong câu trần thuật Một câu nói chỉ có chủ ngữ và vị ngữ chắc chắn sẽ rất thô cứng, để câu trần thuật của bạn trở nên sâu sắc hơn, linh hoạt hơn thì hãy thêm các thành phần phụ vào nhé. Bổ sung các thành phần phụ trong câu trần thuật Một số thành phần mà bạn có thể thêm đó là trạng ngữ hay phụ từ,... có thêm những thành phần này bạn sẽ sở hữu câu trần thuật hoàn chỉnh. Trình bày câu trần thuật chuẩn mẫu Cuối cùng, để có câu trần thuật hoàn hảo thì người viết cần chú ý tới cả hình thức trình bày nhé. Nội dung rất quan trọng tuy nhiên cách trình bày cũng khiến người khác đánh giá về bạn theo một khía cạnh khác. Hãy chú ý tới chính tả trong câu, viết hoa với chữ cái đầu câu, để lại dấu chấm khi kết thúc câu và đọc lại toàn bộ khi viết xong để soát lỗi nhé. 5. Lưu ý khi đặt câu trần thuật Câu trần thuật có trường hợp đặc biệt đó là câu phủ định. Loại câu này lại được chia thành 2 thành phần chính là phủ định miêu tả và phủ định mang tính bác bỏ. Lưu ý khi đặt câu trần thuật Ví dụ - Câu phủ định miêu tả “Bạn ăn gì mà ăn” - Câu phủ định bác bỏ “ Không có chuyện bạn Hoa đã làm chuyện như vậy với mình đâu” Xem thêm Cách dạy bé học chữ cái 6. Ví dụ về câu trần thuật Để bạn đọc hiểu rõ hơn về câu trần thuật, tôi sẽ gửi tới các bạn một số ví dụ ở nội dung bên dưới, theo dõi để áp dụng hiệu quả mỗi khi giao tiếp bạn nhé Ví dụ 1 Trời mưa rất to nên em không thể về nhà được. Đây là câu trần thuật có nội dung khá đơn giản, qua đó bạn hoàn toàn có thể hiểu được câu chuyện mà người viết muốn truyền đạt. Vì là trời mưa rất to nên nhân vật trong câu chuyện này không thể về nhà được. Ví dụ 2 Bố em là công nhân xây dựng Đây là một mẫu câu trần thuật có dạng thông báo, chủ ngữ là “Bố em” và vị ngữ là “là công nhân xây dựng” … Ví dụ về câu trần thuật Như vậy tôi và bạn vừa cùng nhau tìm hiểu xong một vài thông tin về câu trần thuật. Hy vọng qua bài viết, bạn đọc sẽ hiểu bản chất câu trần thuật là gì, đồng thời nắm rõ các đặc điểm, chức năng và cách đặt câu trần thuật sao cho đúng. Khám phá những điều thú vị có ở Không chỉ là câu trần thuật, bạn còn có thể khám phá với hàng ngàn thông tin hấp dẫn khác tại Đây không những là kho tàng tri thức mà còn là nơi tiếp nối đam mê cho các bạn trẻ mong muốn tìm được việc làm đúng chuyên ngành. Thế giới thu nhỏ này sẽ đem lại cho bạn những gì? Trải nghiệm ngay để có những thông tin hữu ích nhất nhé. Từ khóa liên quan Chuyên mục

phương thức trần thuật