🦁 Việt Nam Học Được Gì Từ Nhật Bản
Dịch 8 nhân 9 trong tiếng nhật là sao 9 0 0 Từ điển Nhật - Việt hàng đầu Việt Nam Kantan.vn là một ứng dụng từ điển Nhật - Việt mạnh mẽ và thông minh. Nó cho phép bạn tìm từ song ngữ Nhật - Việt hoặc Việt - Nhật, chữ Hán, câu ví dụ, ngữ pháp, cách sử dụng ngữ pháp một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn tất cả các ứng dụng khác.
Theo tin BBC ngày 20/9, Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên (Bộ đội Biên phòng An Giang) đã tiếp nhận 44 công dân Việt Nam do phía Campuchia trao trả. Theo thông tin ban đầu, đa số công dân Việt Nam trong nhóm này được giải cứu từ các casino hoạt động trá hình khu vực dọc biên giới Tây Nam. Đây là lần thứ
Tuy nhiên đến tháng 8/1908 chính phủ Nhật cấu kết với Pháp trục xuất lưu học sinh kể cả Phan Bội Châu về nước. Giữa lúc cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911), ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang Phục Hội (1912) với mục đích tập hợp lực lượng đánh đuổi Pháp khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam.
Nhật Bản. Đánh giá của bạn: Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức. Bạn đang đọc bài viết Dòng vốn FDI từ Nhật Bản đầu tư "khủng" vào Việt Nam tại chuyên mục Kinh tế của Báo Diễn đàn doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp
Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm gì từ sự phát triển của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước?
Thị trường lao động tại Nhật Bản từ xưa tới nay luôn phải giải quyết nhiều vấn đề khó khăn khi làm việc với công ty xuất khẩu lao động Việt Nam.
Công ty phát hành: CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ SÁNG TẠO. Nhà xuất bản: NXB Đại Học Sư Phạm TP.HCM. Tác giả: Nguyễn Văn Hòa. Loại bìa: Bìa Mềm. Số trang: 1. Năm xuất bản: 2021. 🍀 Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học được xuất bản năm 2021, cập nhật đầy đủ những gì học
Một trong những nguyên nhân giúp Nhật Bản có bước phát triển vượt bậc về kinh tế là coi trọng yếu tố con người. => Bài học mà Việt Nam rút ra được từ sự phát triển của kinh tế Nhật Bản. >> Luyện thi TN THPT & ĐH năm 2023 trên trang trực tuyến Tuyensinh247.com. Học mọi
Như vậy vào vòng tứ kết, Đội tuyển Futsal Việt Nam (nhì bảng D) gặp đội nhất bảng C, Đội tuyển Futsal Iran. Iran hiện là đội bóng số 1 châu Á. Tại vòng bảng, các cầu thủ Iran thắng cả 3 trận, thắng Indonesia, Libanon và Đài Loan (Trung Quốc), ghi được 15 bàn, thủng
5kgu. Để minh họa cho mối quan hệ Chương trình – Sách giáo khoa và thực tiễn giáo dục của giáo viên, tôi xin được dẫn ra một ví dụ cụ thể về thực tiễn giáo dục mà tôi có tham gia chứng kiến ở một vài công đoạn, do cô Kawasaki tiến hành ở Trường Tiểu học Hiyoshidai, thành phố Takatsuki, phủ Osaka. Thực tiễn giáo dục này được cô Kawasaki đặt tên là “Hai nông gia chuyên nghiệp ông Fujita và ông Naito”. Để thực hiện loạt giờ học về nông nghiệp với tên gọi nói trên, cô Kawasaki đã đi điều tra thực tế, thu thập thông tin và phỏng vấn một nông gia nổi tiếng trong vùng là ông Naito. Cô phát hiện ra điểm mấu chốt là 10 năm trước, ông là nông gia dùng nông dược nhưng rồi sau vụ ngộ độc thuốc trừ sâu, ông suy nghĩ và đi đến quyết định không sử dụng nông dược trong quá trình sản xuất nữa. Cô Kawasaki đã sử dụng bước ngoặt này như một điểm nhấn quan trọng trong nội dung giáo dục mà cô thiết kế. Phần nội dung giáo dục hoàn toàn do cô chủ động xây dựng này thay cho nội dung về phần sản xuất nông nghiệp với những thông tin mang tính tổng quát trong sách giáo khoa. Trong thực tiễn giáo dục của cô, sách giáo khoa trở thành tài liệu tham khảo, đọc trước ở nhà và cả ở trên lớp để phục vụ tranh luận. Nói một cách khác, cô đã thiết kế và thực hiện một nội dung giáo dục cụ thể căn cứ trên mục tiêu, nội dung chương trình khung được đề ra trước đó, lấy cái cụ thể để làm rõ cái khái quát, bao trùm. Toàn bộ thực tiễn giáo dục này gồm hai phần chính Phần 1 Thực phẩm và nông dược Trước đó, cô Kawasaki đã hướng dẫn học sinh tiến hành hoạt động ngoại khóa Điều tra thu thập thông tin mua bán thực phẩm, sản xuất nông nghiệp, sử dụng nông dược ở quanh nơi các em sinh sống. Phần này gồm 4 tiết học, mỗi tiết kéo dài 45 phút với các nội dung cụ thể như sau Tiết 1 Bắp cải đẹp và bắp cải bị sâu cắn Nếu là người mua em sẽ chọn cái nào? Tiết 2 Chúng ta thường mua thực phẩm ở đâu? Tiết 3 Chúng ta cần chú ý điều gì đối với thực phẩm? Tiết 4 Nông dược là gì? Phần 2 Nông gia vùng Tainaka ông Naito và ông Fujiata. Phần này được tiến hành qua 7 tiết học với nội dung cụ thể như sau Tiết 1 Tainaka là vùng thế nào?; Tiết 2-3-4 Ông Fujita và ông Naito 1 Nếu là người sản xuất em chọn ông nào? Tiết 5-6 Nghe ông Naito kể chuyện; Tiết 7 Suy nghĩ của các em sau câu chuyện kể cho học sinh viết tiểu luận. Những thông tin giáo viên thu thập được như Tình hình sản xuất, khó khăn, niềm hạnh phúc, thu nhập bình quân hàng năm của nông gia… được giáo viên chỉnh lý cho dễ hiểu và in dưới dạng tài liệu phân phát cho học sinh. Hai nhân vật Naito không dùng nông dược và Fujita dùng nông dược là sáng tạo của giáo viên. Ông Fujita là hình ảnh 10 năm về trước của ông Naito. Giáo viên dùng hai hình ảnh đối lập này để tiến hành giờ học dưới hình thức trao đổi ý kiến và tranh luận. Trung tâm của bài học là vấn đề “Nếu là người sản xuất em sẽ lựa chọn ông Naito hay ông Fujita?”. Học sinh căn cứ vào những luận điểm như Thu nhập, khó khăn, thuận lợi… của hai người mà tranh luận, bác bỏ ý kiến đối lập và bảo vệ sự lựa chọn của mình. Phân tích hồ sơ giờ học cho thấy học sinh đã tranh luận sôi nổi và đưa ra nhiều ý kiến thú vị. Kết cục có ba xu hướng Xu hướng thứ nhất chọn ông Naito Học sinh A Tớ chọn ông Naito vì nếu là nông gia, tớ muốn mọi người được ăn thực phẩm tươi tự nhiên, ít có nông dược. Măc dù thu nhập của ông Fujita cao hơn nhưng nếu xét về tính tự nhiên thì ông Naito vẫn tốt hơn. Cho dù có bị sâu chén đi nữa thì cũng không phải là điều dở. Mà có khi thứ bị sâu chén lại là đồ ngon. Học sinh B Tớ chọn ông Naito vì nông dược có ảnh hưởng đến tính mạng người khác. Nếu như lỡ ăn phải sản phẩm của ông Fujita mà lại quên rửa thì chỉ có đường chết! Tớ cũng nghĩ như cậu A, mạng sống không bao giờ trở lại. Cho dù ai cũng thích tiền nhưng dẫu có tiền cũng không mua được sinh mạng nên tới chọn ông Naito. Xu hướng thứ hai chọn ông Fujita Học sinh C Chắc chắn là tớ chọn ông Fujita. Cho dù nói là nông dược nguy hiểm đến thế nào đi chăng nữa thì cho đến giờ ông Fujita cũng chưa một lần bị nhiễm độc. Ông Naito cho dù không dùng nông dược nhưng vẫn có nhược điểm. Thứ nhất là thu nhập thấp, thứ hai là cũng có lần không bán được, thứ ba là bị sâu ăn. Trái lại ông Fujita thì một là thu nhập cao, thứ hai ít khi không bán được, thứ ba là trở thành người trồng rau nổi tiếng. Và như thế đương nhiên ông Fujita tốt hơn. Học sinh D Tớ nghĩ làm ông Fujita tốt hơn. Cho dù có dùng nông dược đi nữa thì vẫn tốt hơn là bị sâu ăn. Ví dụ như khi trồng bắp cải mà không dùng nông dược thì những chỗ có thể ăn được sẽ bị sâu ăn mất. Cho dù có dùng nông dược đi nữa thì chỉ cần rửa kỹ là không sao. Thế cho nên chắc chắn tớ chọn ông Fujita. Bác Fujita ơi hãy cố gắng nhé! Xu hướng thứ ba Phân vân Học sinh E Tớ ngày hôm qua chọn ông Fujita, nhưng hôm nay đổi sang chọn ông Naito. Khi nghe ý kiến mọi người, tớ lại phân vân không biết chọn ai. Nhưng ông Fujita cho dù có dùng nông dược đi nữa thì vẫn có thu nhập cao. Ông Naito tuy không dùng nông dược nhưng lại có thu nhập thấp. Tớ muốn mọi người ăn thứ không có nông dược nhưng nếu thu nhập thấp thì biết làm sao đây? Nhưng việc ông Naito phải dùng máy cày phá nát luống bắp cải thật đáng thương! Học sinh F Cho đến ngày hôm qua, tớ chọn ông Fujita nhưng hôm nay học thêm lần nữa tớ lại cảm thấy phân vân. Ông Fujita thì có thu nhập cao nhưng lại sử dụng nông dược, nhìn vào tài liệu thấy có viết chuyện ngộ độc thật là đáng sợ. Ông Naito có thu nhập thấp vì thế cuộc sống khó khăn. Nhưng ông Naito đã bỏ cách dùng nông dược sang không dùng nông dược nên tớ nghĩ ông Naito là OK. Thế nên lúc này tớ chăng biết nói thế nào cả. Giờ học kết thúc mà không có kết luận cuối cùng. Từ các lớp bậc trên của tiểu học lớp 4 trở đi trong những giờ học sử dụng phương pháp thảo luận, tranh luận, giáo viên thường không đưa ra kết luận cuối cùng hay phê phán ý kiến khác biệt, thiểu số của học sinh. Bởi vì mục tiêu mà các giáo viên Nhật hướng tới là giáo dục nên những học sinh có tri thức, tư duy độc lập, năng lực phê phán và trách nhiệm cá nhân. Giáo dục nên những con người biết tự mình suy nghĩ, tự mình nhận định đúng sai, tự mình tìm lấy chân lý và bảo vệ chân lý là một bộ phận quan trọng nằm trong triết lý giáo dục Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Không phải chỉ có giờ học về nông nghiệp mà các giờ học Địa lý, Lịch sử cũng vậy. Tôi đã quan sát không ít các giờ học Lịch sử, ở đó học sinh Nhật sôi nổi tranh luận những vấn đề mà nhiều người lớn cũng sẽ lúng túng khi phải đưa ra ý kiến như “Tán thành hay phản đối cuộc chiến tranh với nước Nga?”, “Trách nhiệm chiến tranh thuộc về người dân Nhật hay thuộc về Thiên hoàng?”… Vai trò giáo viên Dạy trò độc lập tư duy và dám phản biện Từ thực tiễn giờ học trên có thể rút ra điều gì? Nó đã thể hiện rất rõ vai trò của giáo viên trong việc xử lý mối quan hệ giữa giáo dục và thực tiễn, giữa sách giáo khoa – nội dung chương trình và thực tiễn dạy học của giáo viên. Những vấn đề liên quan đến các mối quan hệ này đã được các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục Nhật tranh luận sôi nổi suốt từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Việc làm rõ những vấn đề này có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến những vấn đề cơ bản của giáo dục, nơi tạo ra những người làm chủ, quyết định sự hưng vong của cả một quốc gia dân tộc. Kết cục bi thảm của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai cùng với sự phản tỉnh sâu sắc về một nền giáo dục sai lầm trong quá khứ đã giúp cho giáo viên Nhật Bản nhận thức rõ về quyền, nghĩa vụ và sứ mệnh của mình. Nước Nhật từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã giải bài toán giáo dục tương đối thành công bằng cuộc cải cách giáo dục triệt để, toàn diện có triết lý và lộ trình rõ ràng. Cuộc cải cách giáo dục ấy vẫn diễn tiến đến tận ngày nay cho dù triết lý giáo dục về cơ bản là không thay đổi. Trong cuộc cải cách giáo dục toàn diện và rộng lớn ấy, những giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Họ không đơn thuần là người thực hiện những chỉ dẫn cải cách mang tính hành chính mà họ còn đóng vai trò phản biện chính sách góp phần đảm bảo cho cuộc cải cách giáo dục diễn ra đúng hướng. Quan trọng hơn, những giáo viên bằng thực tiễn giáo dục phong phú, sáng tạo tương ứng với điều kiện cụ thể của từng trường học, lớp học, học sinh đã tạo ra cuộc cải cách giáo dục từ dưới lên bằng muôn nghìn dòng chảy. Cuộc cải cách giáo dục ấy đã có những tác động lớn và tích cực tới dòng chảy cải cách giáo dục từ trên xuống do Bộ Giáo dục chủ trì. Việt Nam hiện tại cũng đang đứng trước bài toán giáo dục. Bài toán vừa mang tính kinh điển vừa mang tính thời đại. Muỗn giải trọn vẹn bài toán này rất có thể phải giải thêm và cùng lúc một hai bài toán chính và hàng chục bài toán phụ. Bài toán này tuy khó nhưng thực ra đã nhìn thấy đáp số vì trên thực tế nhiều nước tiên tiến như Nhật đã giải rồi. Vấn đề là ở Việt Nam chúng ta nên giải nó như thế nào? Khó không có nghĩa là không làm hay “há miệng chờ sung” bởi nếu không giải được bài toán đó, chúng ta sẽ mãi là những kẻ bộ hành quờ quạng trong đường hầm không tìm thấy lối ra. Nguyễn Quốc Vương Trích "Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản" - NXB Phụ nữ
Đã từ lâu Nhật Bản là một tấm gương sáng để Việt Nam có thể học hỏi và noi thể nói, Việt Nam là một dân tộc có mối thiện cảm rất tốt đẹp với người NhậtBản không phải chỉ có từ những năm hội nhập hiện nay, mà hơn hết xứ sở hoa anhđào còn là “tượng đài” giúp nhiều người Việt có thể nhìn đó và làm bối cảnh hiện nay, khi mà đất nước gặp nhiều khó khăn chúng ta buộc phảicó những thay đổi căn bản và quyết liệt và tấm gương từ người Nhật chính là hìnhảnh phản chiếu tích cực mà đất nước ta cần phải nhìn theo và học hỏi. Bởi có thểnói rằng những bài học từ Nhật Bản là một việc giúp chúng ta có cái nhìn thực tiễnđể bắt đầu cho sự đổi mới sâu sắc, toàn diện. Vậy chúng ta học được gì từ ngườiNhật, hãy theo dõi ngay bài viết sau đây và nhanh chóng giải đap thắc mắc từ nhanđề trên nhé!Học tính quyết liệtNgười Nhật có những đặc tính mà một dân tộc muốn phát triển không thể khôngmong muốn có những thứ đó và tính quyết liệt là một trong số những ưu điểm màbài viết này muốn đề cập đến đầu thể nói, lịch sử hiện đại hoá nền chính trị, nền kinh tế và nền văn hóa Nhật Bảnđược tiến hành gần như song song hoặc nếu có chậm thì chỉ chậm hơn một chút sovới việc thống nhất nước Mỹ. Thế nhưng bằng sự quyết liệt của mình trong nhữngcuộc cải cách sáng suốt Nhật Bản nhanh chóng vươn lên thành một cường quốccủa thế từ những bài học dám suy nghĩ, dám thay đổi đã là một minh chứng cho thấytính quyết liệt có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển củamột quốc gia. trị. Cho nên, học người Nhật trước hết là học tính quyết liệt trong cảicách từ chính trị đến những quyết đoán, sự dũng cảm của người Nhật trong cách nề nếpNhắc đến nước Nhật chúng ta sẽ dễ dàng nghĩ ngay đến nhũng quy chuẩn khuônmẫu khó có một đất nước nào có được, người Nhật luôn tuân thủ nguyên tắc đề ravà tạo nó thành những thói quen tốt cho bản thân với người Nhật nề nếp chính là yếu tố hàng đầu tạo điều kiện xúc tiến thànhcông dù lĩnh vực mà họ đang thực hiện là gì đi chăng nữa. Thế nên, với nhiều quốcgia trên thế giới đức tính này của người Nhật là một bài học quý giá mà họ cầnphải học sự tôn trọngVề cơ bản, sự tôn trọng luôn được nằm ở phạm vi có ý nghĩa quyết định đến việcdùng người, thế nên thật không khó để thấy rằng đất nước Nhật ngày càng pháttriển mạnh mẽ với các chính sách sử dụng nhân tài tốt và sự tôn trọng chính là yếutố có khả năng quyết định đến những thành công đó. Thế nên, cùng với nhiều nướckhác đây cũng được xem là một bài học mà Việt Nam cũng đã và đang học tập nét kiên nhẫnChúng ta đều biết rằng, sau chiến tranh thế giới thứ hai mkhi phải đối mặt với sự“nhục nhã” của một nước thua trận, vừa bị tàn phá nặng nề, Nhật Bản có nỗi đaukhó ai có thể hình dung được. Nhưng có thể nói rằng Nhật Bản là một dân tộc kỳlạ, họ có thể bỏ nỗi đau của kẻ thua trận và thừa nhận những sai lầm của mình,người Nhật dồn toàn tâm toàn ý xây dựng lại đất nước của mình từ sau thế chiếnthứ hai. Đây là một trong những đức tính mà mọi người đều tỏ rõ ngưỡng mộ khinhắc về nước Nhật và những thành tựu của đất nước ta chưa thể nói chuyện học kỹ năng, vì vậy chúng ta phải học cách hun đúcý chí, hun đúc s vươn lên của con người. Chúng ta cần học hỏi những bí quyết,những bài học mà các quốc gia phát triển đi trước đã làm và Nhật Bản chính là mộttấm gương mà chúng ta có thể học hỏi và noi theo. Và nhất là việc tăng cường xâydựng mối quan hệ tốt với Nhật Bản chính là một trong những yếu tố giúp chúng tacân bằng với các quan hệ quốc tế quan trọng và khó khăn khác trong khu vực.
Theo chia sẻ của TS. Phạm Việt Dũng, Tạp chí Cộng sản, Việt Nam cần học hỏi các bài học công nghiệp hoá từ chính các nước phát triển. x Nhật Bản Ngành công nghiệp Nhật Bản trải qua ba giai đoạn Từ 1945 - 1950 Đây là thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh, Nhà nước bằng cơ chế chính sách đặt trọng tâm vào xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển một số ngành công nghiệp cơ bản, như điện, thép, đóng tàu. Từ cuối năm 1950 - 1970 Nhật Bản phát triển với tốc độ cao, diễn ra hàng loạt các cải tiến kỹ thuật. Đã thực hiện chính sách công nghiệp hóa toàn diện, vừa phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế nhập khẩu, vừa mở rộng cơ sở công nghiệp phát triển các ngành mới có triển vọng, trong đó trọng tâm là sự tổng hợp cơ khí thông dụng, phụ tùng máy móc điện tử. Nhà nước có chính sách hỗ trợ thực hiện cho hướng phát triển này, như hạn chế nhập khẩu các mặt hàng công nghiệp. Từ năm 1970 Nhật Bản thực hiện tự do hóa đầu tư, phát triển cơ chế thị trường, nhà nước giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh. Trọng tâm của chính sách công nghiệp là đưa được nhận định và triển vọng tương lai của các ngành công nghiệp theo hướng cải cách cơ cấu ngành nghề. Sau giai đoạn này, hình thành những doanh nghiệp mạnh, chiếm lĩnh trong từng lĩnh vực, là cơ sở đưa đến sự phát triển nhanh chưa từng có của công nghiệp Nhật Bản. Hiện nay, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư CMCN Chính phủ Nhật Bản đã từng bước ban hành và triển khai các chính sách để thúc đẩy CMCN Đặc biệt, việc phổ biến và phát triển công nghệ internet kết nối vạn vật IoT và CMCN đã được Nhật Bản đẩy mạnh. Tháng 4/2014, Bộ phận Hệ thống sản xuất của Hiệp hội Kỹ sư Cơ khí Nhật Bản JSME-MSD và Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp METI cùng hợp tác thúc đẩy các doanh nghiệp Nhật Bản hợp tác với nhau, xây dựng mô hình kết nối chung, kết quả là tổ chức “Sáng kiến Chuỗi giá trị ngành công nghiệp” IVI được thành lập và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 6/2015. Tháng 01/2016, “Kế hoạch cơ bản về Khoa học và Công nghệ lần thứ 5 giai đoạn 2016 – 2020” được công bố, trong đó đề xuất xây dựng một xã hội siêu thông minh hay còn gọi là “Xã hội Mục tiêu chính của “Xã hội là giải quyết các vấn đề xã hội bằng cách kết nối các hệ thống sử dụng công nghệ số làm nền tảng hợp nhất không gian thực và không gian số. Đây là xã hội cung cấp hàng hóa và dịch vụ theo nhu cầu của từng cá nhân. Hàn Quốc Từ sau Chiến tranh Triều Tiên kết thúc đến năm 1962, trọng tâm phát triển công nghiệp là các ngành sản xuất hàng thay thế nhập khẩu bằng cách sử dụng nguyên liệu do Mỹ viện trợ như chế biến thực phẩm, tơ sợi, may mặc. Mức tăng thu nhập quốc dân theo đầu người hàng năm chỉ đạt 1,1%. Song những năm 1960 dựa vào thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Các ngành được coi trọng là tơ sợi và công nghiệp nhẹ, gia công nông sản, giai đoạn này mức tăng trưởng thu nhập bình quân hàng năm tăng lên đến 6,7% - 8%. Từ năm 1973, Hàn Quốc bắt đầu xây dựng các ngành công nghiệp nặng nhằm cung cấp nguyên liệu và máy móc cần thiết cho các ngành khác, đồng thời nhằm phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu như thép, đóng tàu, điện tử, ô tô và hóa chất. Bên trong dây chuyền lắp ráp ô tô tự động của Hàn Quốc Với chiến lược phát triển công nghiệp này, Hàn Quốc trở thành một trong những nước công nghiệp phát triển. Sau cuộc khủng hoảng châu Á, chiến lược phát triển công nghiệp của Hàn Quốc cũng được đánh giá lại, những ngành công nghiệp công nghệ cao được ưu tiên hỗ trợ phát triển. Tháng 6/2014 Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức đưa ra chiến lược “Cải cách công nghiệp sản xuất Chiến lược này đồng nghĩa với CMCN phiên bản Hàn Quốc và là một phần trong sáng kiến hàng đầu của Tổng thống Park Gun-hye về “Kế hoạch kinh tế sáng tạo” trước đó. Mục tiêu chính của Chiến lược “Cải cách công nghiệp sản xuất gồm - Thúc đẩy việc tích hợp sản xuất và công nghệ thông tin IoT, từ đó tạo ra một ngành công nghiệp mới với mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp sản xuất/chế tạo của Hàn Quốc. - Xác lập vị thế của Hàn Quốc như một cường quốc về công nghệ thông tin với sự tích hợp của ngành công nghiệp công nghệ thông tin và nền sản xuất căn bản. - Đến 2020, xây dựng được nhà máy thông minh với tổng vốn đầu tư khoảng 24 nghìn tỷ KRW khoảng 23 tỷ USD, trong đó hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ Hàn Quốc chỉ dưới 10% và phần chính còn lại sẽ thu hút từ nguồn vốn tư nhân. - Thúc đẩy sự phát triển SMEs thành các doanh nghiệp có tiềm năng lớn, thông qua thông qua việc sử dụng các công nghệ nhà máy thông minh. Mục tiêu này là phản ứng trước áp lực gia tăng đối với nền kinh tế Hàn Quốc do chất lượng sản xuất của Trung Quốc ngày càng được cải thiện. - Chú trọng nâng cao các ngành công nghiệp sản xuất của Hàn Quốc bằng "năng lực mềm" thông qua tăng cường thúc đẩy sự tăng trưởng của các lĩnh vực/phân đoạn sản xuất kết hợp với công nghệ thông tin, phát triển công nghệ cốt lõi liên quan đến IoT, in 3D và dữ liệu lớn. - Mục tiêu đến năm 2024 giá trị sản xuất xuất khẩu của Hàn Quốc đạt tỷ USD, nằm trong top 4 sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và Đức, vượt qua Nhật Bản. Đài Loan Trung Quốc Giai đoạn 1948 - 1958, dựa vào tài sản thu được từ chiến tranh và nguyên liệu nhập khẩu, bằng viện trợ của Mỹ, Đài Loan Trung Quốc thực hiện công nghiệp hóa để thay thế hàng nhập khẩu, mức thu nhập bình quân theo đầu người chỉ tăng 3%. Từ năm 1958 - 1970, bằng hàng loạt chính sách như thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xây dựng các khu chế xuất, vay vốn lãi suất thấp... Đài Loan đã chuyển sang chiến lược công nghiệp hóa hướng tới xuất khẩu, đưa mức tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi giai đoạn trước. Các ngành công nghiệp được chú trọng phát triển là tơ sợi, chế biến thực phẩm, công nghiệp nhẹ chế biến, điện tử và điện gia đụng và trở thành các ngành xuất khẩu quan trọng. Trong thập kỷ 70, trên cơ sở tiềm lực kinh tế đã đạt được, Đài Loan phát triển các ngành công nghiệp nặng then chốt như gang thép, đóng tàu, hóa dầu, đồng thời tiếp tục phát triển các ngành hàng hướng vào xuất khẩu. Sang thập kỷ 80, Đài Loan điều chỉnh lại cơ cấu ngành công nghiệp nhằm nâng cao trình độ hơn, với hướng tập trung vào các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, xử lý thông tin, cơ khí và chế tạo linh kiện ô-tô, coi đó là những ngành chiến lược. Thập niên đầu thế kỷ XXI đến nay, Đài Loan phát triển nền kinh tế chú trọng đổi mới sáng tạo và liên kết với toàn cầu. Hiện nay, Đài Loan vẫn tiếp tục nâng cấp ngành của mình theo các hướng sau - Năm 2002, Đài Loan đề ra kế hoạch 6 năm phát triển kinh tế gọi là “Challenge 2008”. Hai trong bảy mục tiêu của kế hoạch này là tăng số lượng sản phẩm và công nghệ đáp ứng tiêu chuẩn cao nhất của thế giới, và tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển lên 3% GDP. Trong 10 lĩnh vực được nhất mạnh có phát triển thế hệ con người mới, đưa Đài Loan trở thành lãnh thổ kỹ thuật số và là đại bản doanh của các công ty xuyên quốc gia. - Phát triển 6 ngành công nghiệp chủ đạo mới du lịch, y tế và chăm sóc sức khỏe, công nghệ sinh học, năng lượng xanh, văn hóa và nghỉ dưỡng, nông nghiệp cao cấp. - Phát triển 4 ngành công nghiệp thông minh mới điện toán đám mây, phương tiện vận tải điện EV thông minh, kiến trúc thông minh thân thiện môi trường, ứng dụng công nghiệp các bằng sáng chế. Bài học rút ra cho Việt Nam Sản xuất ô tô tại Việt Nam Điểm chung lớn nhất là, mỗi nước đều khai thác tối đa những lợi thế so sánh về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, các nguồn lực về tài nguyên, lao động, nguồn vốn, khoa học, công nghệ, vị trí địa lý... để phát triển những ngành nghề trọng tâm mà chiến lược phát triển đặt ra, phù hợp từng giai đoạn, đặc biệt trong bối cảnh CMCN Trong những năm tới, hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển là xu hướng chủ đạo, mặt khác, cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao làm tăng nhanh sản lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa đời sống kinh tế và đời sống xã hội. Vì vậy, chỉ những quốc gia nào biết phát huy những lợi thế của mình, xác định được chỗ đứng trong chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển một nền kinh tế mở và hợp với xu thế của thế giới mới thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò quản lý của nhà nước với các chính sách vĩ mô rất quan trọng, đặc biệt là trong những giai đoạn đầu của công nghiệp hóa khi mà những mất cân đối còn tồn tại nhiều trong nền kinh tế - xã hội. Sự quản lý của nhà nước thông qua pháp luật, chính sách bảo đảm cho sự phát triển đúng hướng đề ra những mối quan hệ quốc tế, mối quan hệ trong nội bộ nền kinh tế, trong các ngành thuận lợi, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển. Một bài học nữa là, tùy theo đặc điểm tình hình của mỗi nước về kinh tế - xã hội mà mỗi nước lựa chọn cho mình hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nào cho hợp lý và có kết quả nhất. Thực tiễn cho thấy, trong những giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do ít vốn, lao động nhiều. Chỉ khi tiềm lực kinh tế đã khá vững mới chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao.
việt nam học được gì từ nhật bản